TÀI LIỆU TU HỌC: BẬC CHÂN CỨNG
· Lịch Sử Ðức Phật Thích Ca - từ Xuất Gia đến Nhập Diệt (The History Of Thich Ca Buddha-From Monkshood to Nirvana)
BÀI 1
Lịch Sử Ðức Phật Thích Ca
(từ Xuất Gia đến Nhập Diệt)
(từ Xuất Gia đến Nhập Diệt)
Nửa đêm mùng Tám tháng Hai,
Thái Tử Tất Ðạt Ða cùng người hầu cận là Xa Nặc cởi ngựa Kiền Trắc vượt cửa
thành ra đi. Ðến sông A Nô Ma, Ngài xuống ngựa, cắt tóc, cởi đồ trang sức giao
cho Xa Nặc mang về cung báo cho Vua Tịnh Phạn biết ý định đi tìm Ðạo giải thoát
cho chúng sanh của Thái Tử. Trên đường đi gặp người thợ săn Thái Tử cởi áo mình
đổi lấy quần áo của người thợ săn, cương quyết từ giả cảnh đời xa hoa, vương
giả.
Trước hết Thái Tử tìm hiểu
và tu những Ðạo đang có ở trong nước, tìm xem Ðạo nào là chân chánh giải thoát
cho tất cả chúng sanh. Ðến thành Vương Xá, rừng Bạt Già Thái Tử hỏi Ðạo của các
vị Tiên tu khổ hạnh, để được lên các cõi trời, nhưng nhận thấy chưa phải là Ðạo
chân chánh giải thoát. Ðến phía Bắc thành Tỳ Xá Lỵ Thái Tử hỏi Ðạo ông A La La
tu để lên cõi trời Vô Tưởng nhưng Ngài cảm thấy cũng chưa phải là Ðạo giải thoát.
Rồi Ngài đến hỏi Ðạo ông Uất Ðầu Lam Phất, tu để sanh về cõi trời Phi Tưởng Phi
Phi Tưởng Xứ; Thái Tử đã tu theo và chứng được, nhưng Ngài cũng nhận rằng cõi
ấy chưa phải là cảnh giải thoát.
Sau ba lần hỏi Ðạo Thái Tử
nhận thức rằng các Ðạo hiện hành không có Ðạo nào là chân chánh giải thoát,
Ngài nghĩ phải tự mình tu tập mới tìm rõ Ðạo chân chánh. Ðến rừng Ưu Lâu Tần
La, phía Nam núi Tượng Ðầu, bên sông Ni Liên Ngài cùng năm anh em ông Kiều Trần
Như tu khổ hạnh. Trong sáu năm Ngài cương quyết ép xác mình cho đến mỗi ngày
chỉ ăn một hạt gạo hoặc một hạt mè mà thôi. Ðến một ngày kia thân xác Ngài tiều
tuỵ té xỉu chết giấc. Lúc ấy có một người đàn bà tên Tu Xà Ðề thấy Ngài nằm
dưới gốc cây liền mang sửa đến dâng. Khi tỉnh dậy, Ngài hiểu rằng tu khổ hạnh
chưa phải là Ðạo giải thoát. Ngài xuống sông Ni Liên tắm rửa sạch sẽ, rồi đến
gốc cây Bồ Ðề trải cỏ làm nệm, ngồi tọa thiền và thề rằng: "Nếu ta không
chứng Ðạo giải thoát cho chúng sanh thì thề trọn đời không rời khỏi cây Bồ Ðề
này."
Trong lúc Ngài định tâm tu
tập các Ma Vương sợ Ngài thành Ðạo sẽ giác ngộ cho muôn loài bèn rủ nhau đến
tìm cách phá Ngài, nhưng Thái Tử quyết tâm tu tập đã thắng tất cả những sự phá
phách của Ma Vương. Sau bốn mươi chín (49) ngày tu tập dưới gốc cây Bồ Ðề, đến
đêm mùng Tám tháng Mười Hai Thái Tử chứng Ðạo vô thượng, thành Phật hiệu Thích
Ca Mâu Ni.
Ðức Phật Thích Ca đến vườn
Lộc Uyển thuyết Pháp Bốn Ðế (Khổ, Tập, Diệt, Ðạo) cho năm người bạn cùng tu khổ
hạnh là nhóm Kiều Trần Như, và họ trở thành đệ tử Phật, từ đó mới có đủ ba ngôi
báu là Phật, Pháp, và Tăng.
Ðức Phật thuyết Pháp và giáo
hóa chúng sanh hơn bốn mươi chín (49) năm, Ngài độ cho vô số đệ tử giàu nghèo
sang hèn đủ mọi tầng lớp. Trong lúc còn tại thế Ngài đi thuyết Pháp trong chín
(9) tháng nắng ở xứ Ấn Ðộ, còn ba tháng mưa thì ở lại tịnh xá để chuyên tu.
Biết mình sắp nhập Niết Bàn,
đêm trăng tròn tháng hai Ấn Ðộ, Ngài tụ tập các hàng đệ tử tại xứ Câu Ly, rừng
Xa Nại, treo võng nơi hai cây Song Thọ, giảng dạy khuyên bảo lần cuối, trao y
bát cho cho đệ tử là ngài Ca Diếp để tiếp tục truyền Ðạo, rồi từ giã mọi người
mà nhập Niết Bàn. Ngài hưởng thọ tám mươi (80) tuổi.
BÀI
2:
Cách Thức Sử Dụng Chuông Mõ
Chuông mõ giúp cho buổi lễ
Phật, tụng kinh được trang nghiêm, đều đặn và tạo được sự thành kính và thanh
tịnh. Muốn đạt được ý nghĩa trên cần phải đánh chuông mõ thật đúng cách.
I. Trước Khi Lễ:
A. Hai đoàn sinh được chỉ
định thủ chuông mõ vào chánh điện lau chùi, dọn dẹp bàn thờ Phật, Bồ Tát, Tổ
cho sạch sẽ và ngăn nắp, đốt nến, thắp hương cho mỗi lư hương, và thắp riêng ba
nén hương dành cho vị chủ lễ.
B. Hai đoàn sinh thủ chuông
mõ đứng đối diện nhìn thẳng nhau chứ không nhìn vào bàn Phật, nhìn vị chủ lễ để
theo dõi khi đánh chuông mõ.
C. Ðánh một tiếng chuông
thong thả để tất cả đoàn sinh và Huynh Trưởng vào chánh điện, tất cả ngồi tịnh
tâm đợi vị chủ lễ vái Tổ xong.
D. Ðánh một tiếng chuông cho
tất cả đứng dậy chắp tay ngay ngắn, vị chủ lễ lễ Phật ba lạy.
II. Trong Khi Lễ:
A. Niệm Hương, cử bài Trầm
Hương Ðốt, Tán Phật, Ðảnh Lễ:
1) Ðánh một tiếng chuông sau mỗi bài niệm hương, tán Phật.
2) Trong khi hát bài Trầm Hương Ðốt, đánh một tiếng chuông trước khi chấm dứt mỗi câu niệm "Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật".
3) Sau mỗi câu Ðảnh Lễ đánh một tiếng chuông, tất cả đều lạy.
1) Ðánh một tiếng chuông sau mỗi bài niệm hương, tán Phật.
2) Trong khi hát bài Trầm Hương Ðốt, đánh một tiếng chuông trước khi chấm dứt mỗi câu niệm "Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật".
3) Sau mỗi câu Ðảnh Lễ đánh một tiếng chuông, tất cả đều lạy.
B. Khai Chuông Mõ:
- Chuông: 3 tiếng rời 0 0 0
- Mõ: 7 tiếng (4 tiếng rời, 2 tiếng liên tiếp, 1 tiếng rời) X_X_X_X_XX_X
- Chuông mõ: 1 tiếng chuông,1 tiếng mõ 3 lần 0 X_0 X_0 X
- Mõ: 1 tiếng rời, 2 tiếng liên tiếp, 1 tiếng rời X_XX_X
- Chuông: 3 tiếng rời 0 0 0
- Mõ: 7 tiếng (4 tiếng rời, 2 tiếng liên tiếp, 1 tiếng rời) X_X_X_X_XX_X
- Chuông mõ: 1 tiếng chuông,1 tiếng mõ 3 lần 0 X_0 X_0 X
- Mõ: 1 tiếng rời, 2 tiếng liên tiếp, 1 tiếng rời X_XX_X
C. Tụng Bài Sám Hối:
- Mõ: đánh tiếng thứ hai (tử), bỏ tiếng thứ ba (kính), đánh tiếng thứ tư (lạy) rồi tiếp tục đánh từng tiếng bắt đầu tiếng thứ năm (đức) trở đi.
- Chuông: đánh một tiếng sau khi đọc câu "Thành Tâm Sám Hối".
- Mõ: đánh thúc hai tiếng trước khi chấm dứt bài "Sám Hối Nguyện"
- Chuông: đánh một tiếng sau khi chấm dứt bài "Sám Hối Nguyện"
- Mõ: đánh tiếng thứ hai (tử), bỏ tiếng thứ ba (kính), đánh tiếng thứ tư (lạy) rồi tiếp tục đánh từng tiếng bắt đầu tiếng thứ năm (đức) trở đi.
- Chuông: đánh một tiếng sau khi đọc câu "Thành Tâm Sám Hối".
- Mõ: đánh thúc hai tiếng trước khi chấm dứt bài "Sám Hối Nguyện"
- Chuông: đánh một tiếng sau khi chấm dứt bài "Sám Hối Nguyện"
D. Tụng Danh Hiệu Phật và Bồ
Tát:
- Mõ: đánh từng tiếng từ đầu và hơi nhanh hơn bài "Sám Hối Nguyện"
- Chuông: trước khi dứt mỗi danh hiệu đánh một tiếng chuông.
- Mõ: đánh từng tiếng từ đầu và hơi nhanh hơn bài "Sám Hối Nguyện"
- Chuông: trước khi dứt mỗi danh hiệu đánh một tiếng chuông.
E. Tụng Bài Chú:
- Mõ: đánh nhanh hơn khi tụng các bài chú.
- Chuông: đánh một tiếng trước khi chấm dứt bài chú.
- Mõ: đánh nhanh hơn khi tụng các bài chú.
- Chuông: đánh một tiếng trước khi chấm dứt bài chú.
F. Tam Tự Quy:
- Mõ: đánh thong thả (chậm).
- Chuông: đánh một tiếng trước khi chấm dứt mỗi câu Tự Quy Y.
- Mõ: đánh thong thả (chậm).
- Chuông: đánh một tiếng trước khi chấm dứt mỗi câu Tự Quy Y.
G. Hồi Hướng:
- Mõ: đánh thong thả (chậm).
- Chuông: đánh một tiếng trước khi chấm dứt bài "Hồi Hướng Công Ðức"
- Mõ: đánh thong thả (chậm).
- Chuông: đánh một tiếng trước khi chấm dứt bài "Hồi Hướng Công Ðức"
H. Ðọc Các Ðiều Luật:
- Mõ: xong bổn phận không đánh nữa.
- Chuông: đánh một tiếng khi xong các điều luật của Oanh Vũ và một tiếng khi xong các điều luật của ngành Thanh, Thiếu, và Huynh Trưởng.
- Chuông: đánh 3 tiếng chuông chấm dứt buổi lễ Phật.
- Chuông: vị chủ lễ đánh chuông (3 lần) để hai đoàn sinh thủ chuông mõ lễ Phật (3 lạy).
- Mõ: xong bổn phận không đánh nữa.
- Chuông: đánh một tiếng khi xong các điều luật của Oanh Vũ và một tiếng khi xong các điều luật của ngành Thanh, Thiếu, và Huynh Trưởng.
- Chuông: đánh 3 tiếng chuông chấm dứt buổi lễ Phật.
- Chuông: vị chủ lễ đánh chuông (3 lần) để hai đoàn sinh thủ chuông mõ lễ Phật (3 lạy).
III. Sau Khi Lễ:
A. Hai đoàn sinh thủ chuông
mõ thâu kinh, sắp gọn gàng vào vào tủ kinh.
B. Hai đoàn sinh thủ chuông
mõ tắt nến, dọn dẹp bàn thờ trước khi ra ngoài.
BÀI 3:
Ý Nghĩa Màu Lam
Màu Lam là màu dịu hiền, màu
hòa hợp được với tất cả các màu sắc khác. Gia Ðình Phật Tử chọn màu Lam làm màu
áo để dễ hoà hợp tất cả mọi người, không phân biệt giàu nghèo, sang hèn.
Mặc áo màu Lam vào làm lòng
người dịu lại, không nóng nãy không u buồn và tạo được sự mến thương của mọi
người chung quanh.
BÀI 4:
Em Ði Họp Ðoàn
Ðến với Ðoàn có nhiều ích
lợi, được học được chơi, có anh tốt, bạn hiền nên em phải cố gắng đi họp chuyên
cần, hăng hái trong tất cả việc Ðoàn để làm cho Ðoàn càng ngày càng mạnh, càng
đông, càng vui.
Em luôn luôn ngoan ngoãn
vâng lời anh chị dạy bảo, nhường nhịn bạn bè và khuyến khích bạn lo tu học cho
tấn tới.
BÀI 5:
Ý Nghĩa Chào Kính Của Gia
Ðình Phật Tử
Gia Ðình Phật Tử dùng ấn Cát
Tường để chào nhau khi mặc đồng phục. Chào theo lối này để biểu lộ tinh thần
đoàn kết, tinh thần kỷ luật và sự hòa hợp của tổ chức Gia Ðình Phật Tử.
Cách bắt ấn Cát Tường: Người
chào đứng thẳng, mặt hướng về nguời mình chào, tay phải gập lại, cánh tay song
song với thân người, lòng bàn tay hướng về phía trước, cùi chỏ gần sát thân
người và ngang hàng với tầm lưng, đừng quá ra phía sau hay phía trước, các ngón
tay khép vào nhau, ngón tay cái đè lên ngón đeo nhẫn (ngón áp út) trong khi
ngón này gấp lại, mủi bàn tay ngang tầm vai. Tay
trái xuôi theo người. Người được chào phải chào lại người chào mình.
Ngoài ra chào theo lối bắt
ấn Cát Tường còn có mục đích nhắc nhở chúng ta lắng lòng cho trong sạch, giữ
vững niềm tin Phật, nhớ lời Phật dạy, tránh dữ làm lành.
Chính đức Phật thường dùng
ấn này để phóng hào quang cứu độ chúng sanh.
Các phương cách chào kính
trong Gia Ðình Phật Tử:
1. Chào nhau khi gặp mặt lần
đầu tiên trong ngày, người nhỏ chào người lớn trước.
2. Khi đi từng đoàn gặp anh chị trưởng chỉ người hướng dẫn chào mà thôi.
3. Khi gặp đám tang tất cả đều chào một lần.
4. Khi chào cờ Ðoàn chào một lần, lúc hát bài ca chính thức Ðóa Sen Trắng không chào.
5. Khi gặp chư Tăng Ni chắp tay vái chào, đi từng đoàn người hướng dẫn chào chư Tăng Ni.
6. Khi gặp quý Bác trong khuôn hội, Phật Tử lớn tuổi, anh chị trưởng mặc thường phục vòng tay cuối đầu chào.
2. Khi đi từng đoàn gặp anh chị trưởng chỉ người hướng dẫn chào mà thôi.
3. Khi gặp đám tang tất cả đều chào một lần.
4. Khi chào cờ Ðoàn chào một lần, lúc hát bài ca chính thức Ðóa Sen Trắng không chào.
5. Khi gặp chư Tăng Ni chắp tay vái chào, đi từng đoàn người hướng dẫn chào chư Tăng Ni.
6. Khi gặp quý Bác trong khuôn hội, Phật Tử lớn tuổi, anh chị trưởng mặc thường phục vòng tay cuối đầu chào.
Giữ yên lặng trong khuôn
viên chánh điện Chùa để tỏ lòng thành kính.
BÀI
6:
Sáu Phép Hòa Kính
I. Ðịnh Nghĩa:
Sáu phép Hòa Kính là chung
hòa thành từng đoàn và sống đúng theo tinh thần lục hòa, là sáu nguyên tắc căn
bản để các bậc xuất gia sống hòa hợp với nhau.
A. Thân Hòa Ðồng Trú: Cùng
chung một việc làm, sống chung một chỗ với nhau, đoàn kết và xem nhau như anh
em ruột thịt. Như các vị xuất gia cùng sống chung một chùa và bao giờ cũng đồng
chung công việc làm với nhau.
B. Khẩu Hòa Vô Tranh: Không
dùng lời nói thô ác, cải mắng nhau mà sinh ra giận hờn. Có điều gì không đồng
ý, thì cùng nhau lấy lời hòa nhã giải thích cho nhau đồng hiểu.
C. Ý Hòa Ðồng Duyệt: Nghĩa
là ý kiến dung hòa với nhau, không có mỗi người mỗi ý, làm việc gì cũng phải
hỏi ý kiến với nhau, sau khi thỏa thuận rồi mới thi hành.
D. Giới Hòa Ðồng Tu: Luôn
luôn giúp đỡ lẫn nhau và đồng tuân theo giữ gìn giới luật.
E. Lợi Hòa Ðồng Quân: Những
quyền lợi gì có được thì phải đồng chia đều với nhau, không có kẻ ít người
nhiều.
F. Kiến Hòa Ðồng Giải: Mọi
sự hiểu biết đều phải giải thích cho nhau cùng hiểu, cùng học chứ không phải
giữ lấy riêng một mình.
II. Kết Luận:
Ðức Phật đã đặt ra sáu phép
Hòa Kính nầy làm nguyên tắc cho các bậc xuất gia chung sống với nhau, đem sự
hòa đồng trong chúng để cùng nhau sống theo lời dạy của Ðức Phật, tinh tấn trên
con đường giải thoát và giác ngộ. Chúng ta là những Phật Tử, phải luôn luôn cố
gắng sống theo tinh thần Lục Hòa hầu tinh tấn trên đường tu học.
BÀI
7:
Chuyện Tiền Thân
Chiếc Cầu Muôn Thuở
Trong một khu rừng xanh tươi
thuộc núi Hy Mã Lạp Sơn, xứ Ấn Ðộ, có một cây xoài khổng lồ mọc cạnh bờ sông
Hằng.
Trên cây, có một đàn vượn cả
ngàn con họp thành một quốc gia riêng biệt, do một vượn chúa thân hình đẹp đẽ,
sức mạnh phi thường đứng đầu. Ðến mùa xoài trổ trái to, thơm, ngon đó là lương
thực đủ dùng cho cả quốc gia vượn.
Vượn chúa cẩn thận lắm, nó
ra lệnh cho tất cả bầy vượn ăn hết trái xoài khi xoài còn xanh, không được đợi
xoài chín, cả đoàn vâng lời làm theo. Nhưng rủi thay, một chuyện không may xảy
đến. Một trái xoài to bị tổ kiến che lấp nên dần dà chín mùi rồi rụng xuống
sông trôi theo giòng nước. Nước cuốn trái xoài chín vào trong hồ bơi của Vua xứ
Ba La Nại, gặp đúng lúc nhà Vua đang tắm. Ðược quả xoài to chín thơm nên nhà
Vua ăn thử lấy làm thích thú và hôm sau ra lệnh cho quân lính chèo thuyền theo
dòng sông đi tìm chỗ cây xoài mọc.
Sau ba ngày mệt nhọc nhà Vua
và quân lính tìm được cây xoài vĩ đại ấy và nhìn thấy trên cây đàn vượn đang
chuyền cành. Nhà Vua tức giận ra lệnh tàn sát đàn vượn đã hổn xược ăn hết xoài
chín ngon trước nhà Vua.
Nhưng trời đã sẩm tối, quân
lính phải bao vây chờ hôm sau mới ra tay.
Ðêm đó đàn vượn vô cùng
hoảng sợ. Riêng vượn chúa lại rất bình tỉnh, nó lén đến cành cây ngã về phía
dòng sông, lấy hết sức phóng qua khỏi bờ bên kia. Vượn chúa tìm được những đoạn
dây và hết sức vui mừng nối lại rồi buộc một đầu vào gốc cây còn đầu kia buộc
vào thân mình. Ðoạn vượn chúa dùng kết sức lực phóng về phía cành xoài với mục
đích bắt thành chiếc cầu dây cứu đàn vượn. Rủi thay sợi dây ngắn một đoạn nên
khi hai chân trước vừa bám được vào cành cây thì dây đã căng thẳng và chính
thân của vượn chúa nối thế một đoạn dây.
Vượn chúa ra lệnh cho cả
đoàn vượn lần lượt sang sông. Bầy vượn ngần ngại vì phải dẫm lên mình vượn
chúa. Nhiều con cảm động khóc nhưng tình thế bắt buộc đành phải trốn thoát sang
sông. Con vượn cuối cùng khá lớn tên là Davadatta vốn ganh ghét vượn chúa nên
nó dẫm mạnh lên mình của vượn chúa. Vượn chúa đau đớn gần muốn chết nhưng vẫn
cắn răng chịu đựng để cứu con vượn gian ác ấy qua sông thoát chết.
Qua được sông rồi, con vượn
Devadatta nhìn lại lấy làm ân hận, rơi hai giòng lệ vì thấy vượn chúa lông lá
tơi bời không cử động được nữa.
Sáng dậy vua Ba La Nại
truyền lệnh tiến quân, nhưng tất cả đều lấy làm lạ vì trên cây không còn con vượn
nào cả. Nhìn lại chỉ thấy một chiếc cầu dây bắt ngang sông, từ mình một con
vượn lớn. Các thợ rừng cho biết dó là con vượn chúa. Bấy giờ nhà Vua mới hiểu
thấu đầu đuôi và tĩnh ngộ. Ngài nghĩ đến sự ích kỷ của mình chỉ vì những trái
xoài mà định gây nên sự tàn sát thảm khốc. Ngài liền ra lệnh lui quân và tự tay
vuốt ve săn sóc cho đến khi tĩnh lại.
Sự hy sinh của vượn chúa làm
cho nhà Vua hối cải sửa đổi cách trị dân và làm lành tránh ác.
Vượn chúa là tiền thân của
đức Phật Thích Ca.
BÀI
8:
Chuyện Tiền Thân
Con Voi Hiếu Nghĩa
Ngày xưa ở xứ Ba La Nại có
một vị Vua thường dẫn lính vào rừng săn bắn. Một hôm nhà Vua thấy một con voi
trắng tuyệt đẹp, vua bắt về sai lính trông nom cẩn thận và lo cho ăn uống sung
sướng.
Nhưng kể từ khi bị bắt, voi
chỉ khóc đầm đìa không chịu ăn uống. Tên lính trông nom liền trình lên nhà Vua
điều ấy. Vua liền tự mình đến chuồng và hỏi voi tại sao không ăn uống mà cứ
khóc mãi như thế.
Voi liền quỳ xuống thưa
rằng:
- Tâu bệ hạ, tôi còn cha mẹ
già ở rừng xanh không thể đi kiếm ăn được, chỉ trông cậy vào mình tôi. Nay tôi
sa cơ bị bắt, cha mẹ tôi chắc sẽ chết đói. Thà tôi chịu chết còn hơn sống mà
không làm tròn hiếu đạo.
Nghe xong nhà Vua động lòng
thương mến thả cho voi về rừng. Voi quỳ xuống tạ ơn và hứa sẽ trở lại hầu hạ
Vua sau khi nuôi dưỡng cha mẹ già đến khi qua đời. Xong voi vội vã chạy về
rừng, nơi cha mẹ ở.
Mười hai năm sau, khi Vua
đang ngự tại triều, bỗng thấy con voi năm trước trở lại, thân thể gầy còm. Voi
quỳ xuống thưa với nhà Vua là cha mẹ voi đã qua đời. Nhớ lời hẹn xưa voi trở về
hầu hạ Vua.
Nghe xong Vua khen con voi
có hiếu nghĩa, biết giữ lời hứa nên sai người trông nom con voi quý đến già
chết.
Con voi ấy là tiền thân của
đức Phật Thích Ca.
BÀI
9:
Mẫu Chuyện Ðạo
Thầy Tỳ Kheo với Con Ngỗng
Một Thầy Tỳ Kheo mang bình
bát ghé một nhà giàu có để khất thực. Bà chủ nhà đang trò chuyện vô ý đánh rơi
chiếc nhẫn xuống sàn nhà. Lúc đó có một con ngỗng đi qua và nuốt ngay chiếc
nhẫn vào bụng. Khi chủ nhà biết mất chiếc nhẫn liền hỏi Thầy Tỳ Kheo có thấy
rơi chỗ nào không, nhưng Thầy Tỳ Kheo vẫn im lặng không trả lời.
Sanh nghi Thầy Tỳ Kheo nhặt
và giấu chiếc nhẫn quý nên chủ nhà nhiếc mắng thậm tệ và đánh đập, nhưng Thầy Tỳ
Kheo vẫn im lặng chịu đau không nói gì cả.
Một lúc sau người nhà báo
tin con ngỗng tự nhiên ngã ra chết. Bấy giờ Thầy Tỳ Kheo mới chậm rãi nói rằng:
- Hồi nãy tôi thấy con ngỗng
nuốt chiếc nhẫn của bà chủ. Chủ nhà cho người mổ ruột ngỗng và quả nhiên tìm
thấy được chiếc nhẫn đã bị mất.
Quá hối hận, chủ nhà liền
sụp lạy Thầy Tỳ Kheo và lễ phép thưa rằng:
- Trước đây Thầy thấy con
ngỗng nuốt chiếc nhẫn, tại sao Thầy không cho con biết, con hỏi nhiều lần Thầy
vẫn im lặng đến nỗi con xúc phạm đến thế, mà Thầy vẫn không trả lời?
Thầy Tỳ Kheo chậm rãi nói:
- Thà tôi bị nhiếc mắng, bị
đánh đập mà giữ được đạo hạnh chứ nếu tôi nói cho bà biết thì con ngỗng ẽ bị
sát hại, việc ấy không bao giờ kẻ tu hành dám làm.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét